Friday, October 17, 2008

Thiếu quê hương


Long Thành
Tôi rời Sài Gòn vào lúc 8h45 sáng chủ nhật. Đường đi không nắng mấy và trời có một màu tro đáng yêu. Một chuyến đi suôn sẻ, không mấy gập ghềnh. Từ Sài Gòn về đến Long Thành mất chỉ độ gần 1h đồng hồ lái xe. Tôi đang về đến nơi không ai chờ chào đón mình.
Thím vẫn vậy và chú vẫn vậy, chỉ có bà nội hình như trông gầy và già hơn dạo tết nhiều. Nhưng tôi không thấy xúc động mấy khi nghĩ đến chuyện so sánh này. Mấy đứa bé con chạy ra chào đón bằng nụ cười. Chỉ có vậy. Và hết.
Nhiều giờ đồng hồ liền tôi nằm dài hoặc ngồi vật vờ trên ghế sô fa chờ đến giờ ăn. Về Long Thành lần nào cũng vậy. Chẳng có việc gì làm ngoài việc chờ đến giờ ăn, ăn xong thì dọn dẹp và tiếp tục chờ đến một bữa khác. Nhiều khi tôi hết hiểu tại sao thím thấy hạnh phúc khi sống một cuộc đời như thế. Bất kỳ một người khách nào đến cũng không làm thay đổi thói quen và nếp sống ở đây. Bất kỳ lúc nào xuống đây tôi cũng thấy mình giống một con heo nằm bên máng chờ ăn cho hết ngày. Có lẽ tôi và bầy gà chú thím nuôi trong trại cũng không khác nhau mấy.
Nhà chú đã khác nhiều so với lần cuối cùng tôi đến. Nhiều đồ đạc hơn. Một cái sập gụ cẩn xà cừ, một cái tủ kính cùng loại phô trương quá mức. Những thứ đó phối màu một cách buồn cười với nền tường quét sơn cam nhạt và một bức tranh rất to nhưng vẽ ẩu tả và xấu xí một đoạn đường quốc lộ có cột cây số báo còn 20km nữa đến Long Thành. Vẫn là một cảm giác như trước đây, cảm giác hệt như lần đầu tôi nhìn thấy sự bài trí đồ đạc trong ngôi nhà này. Sự phô bày của một trưởng giả miền tỉnh lẻ.
Thím có vẻ lạnh nhạt với tôi. Chú cũng vậy. Tôi cũng chẳng chờ đợi gì. Sau khi biết rõ tại sao bà nội có mặt tại miền Nam này vào đúng thời điểm này, tôi mất hết cả khả năng ngạc nhiên của mình. Tôi chẳng phải là đứa cháu duy nhất mà người ta có và người ta cần. Nghĩ cho cùng chẳng có lý do gì phải ngọt nhạt với tôi cả. Tôi, người đã quá thừa và là dấu tích cũ rành rành của một câu chuyện gây bực mình và khó chịu với dòng họ.
Thời giờ trôi qua chậm chạp. 3h mới được về. Tôi đã leo lên lầu trên và ngủ thiếp đi để giết thời gian. Tôi mừng vì dạo này mình đã lấy lại được thói quen dễ ngủ sau quá nhiều đêm trằn trọc. Tôi ngủ như một cái đồng hồ báo thức. Đúng 3h kém 5 tôi thức dậy và bước xuống lầu.
Tôi tránh nói chuyện với mọi người nhưng thực ra tôi đã không cần phải làm như thế vì mọi người cũng chẳng còn gì nhiều để nói với nhau ngoài chuyện bàn cãi món gà nên rán hay nên nướng. Bà vẫn thỉnh thoảng nhắc lại y hệt câu nói trước giờ, làm tôi thấy nản và buồn cười như thể nghe lại cuộn băng quay quá nhoè : “Ráng học nghe con.” Tôi không thấy cảm động như trong các truyện thường hay tả. Tôi thấy buồn cười, nhưng tôi đã không cười.

Mộc Nhạc
Thực ra tôi đã hình dung chuyến đi vào sáng chủ nhật một cách tồi tệ hơn. Tôi đã nghĩ đến những điều phải nghe và nhận xét về chuyện quá khứ, đến những lời tôi chắc rằng mình sẽ phải gào lên để chống lại. Vì thế tối thứ bảy tôi mới tìm đến Mộc Nhạc như một liều thuốc an thần. Nhưng rủi thay lần này có lẽ tôi uống nhiều thuốc quá nên thuốc đâm nhờn và vô tác dụng, thậm chí nếu không muốn nói là có những phản ứng phụ gây khó chịu.
Thứ bảy là một ngày nhiều việc nhưng an nhàn. Hiếm khi có được trạng thái này. Thường với một ngày làm việc và quay cuồng với chữ xong tôi hay chóng mặt và lên cơn nhức đầu khủng khiếp nhưng lần này thì không. Có lẽ là nhờ bài thơ vào giờ học buổi chiều. Bài thơ iambic nhẹ nhàng và buồn như những nụ hoa tuyết lả tả trời đông.
Thy nói có thể Thy đến cùng tôi trong tối này nếu được. Nhưng tôi biết Thy sẽ không đến. Tự dưng tôi cảm nhận thấy rõ ràng là rồi sẽ chỉ có tôi ở Mộc Nhạc. Tôi bảo với Thy rằng chúng mình không đi tìm hạnh phúc nữa vì chúng mình chán rồi, bao giờ hạnh phúc thấy buồn nó sẽ tìm đến mình vậy. Thy cần ở một mình để có thời gian buồn. Tôi cũng vậy.
Tôi đã nghĩ những điều này khi bước từ trên cầu thang xuống nhà để chuẩn bị đến Mộc Nhạc. Tất cả những con người suy tư trong lịch sử tồn tại đều bị lên án. Tôi không biết tại sao. Mọi con người suy tư đều làm nhân loại với cái giọng kêu gọi nhân bản và nhân văn lên án một cách dữ dội. Con người suy tư hàm chứa niềm độc ác và quay cuồng. Con người suy tư tự kiến tạo niềm cô độc và cách biệt. Con người suy tư, sự phức tạp mà ngay cả Thượng đế cũng không tha thứ ngay từ thời ở Eden và sau này, mãi đến tận sau này ở thời điểm này cũng vậy, khi Thượng Đế đã lùi vào dĩ vãng và thiếp ngủ sau những tháng năm nhọc nhằn với tín ngưỡng và tôn giáo, tinh thần. Con người được quyền suy nghĩ, nhưng không được quyền suy tư. Những giá trị do suy tư đem lại bị cảnh báo ở mức cao nhất về sự huỷ diệt nhiều ràng buộc và niềm tin thần thánh của loài người.
Mộc Nhạc vẫn ngần ấy khách, vẫn ngần ấy nụ cười của những chị phục vụ. Tôi bước vào trong một trạng thái mệt mỏi gần như muốn ngã. Có lẽ vì thế chị phục vụ hỏi xem tôi đang say có phải không, Tôi cười trừ, chẳng lẽ lại bảo rằng tôi không có khả năng say, tôi chỉ có thể mệt trước những cuộc say thôi. Tôi tháo cái chụp đèn và lấy một cuốn sổ ra, nhìn trân trối vào mấy con chữ ngoằn nghoèo mình viết cách đây không lâu. Lạc lõng quá thể với cảnh vật và với ký ức của mình vào thời điểm khác, nơi chốn khác. Ánh sáng nến vốn mù mờ giờ trở nên gay gắt trong khung cảnh này. Tôi không biết gương mặt mình trong ánh nến nhìn ra sao. Chắc là một vẻ tiều tuỵ và uể oải bởi bất giác tôi có cảm giác quanh tôi vang nhè nhẹ lạo xạo một âm thở dài. Tiếng thở của chính tôi.
Tôi ngồi sát một góc hẹp cuối dãy. Tư duy về góc hẹp của loài người. Vào thời điểm mệt và buồn, người ta hay có xu hướng cần sự an toàn tuyệt đối. Tôi thấy một người tôi không muốn thấy vào lúc này nhưng tôi mặc kệ. Có lẽ họ cũng không muốn nhìn thấy tôi. Đăng bắt đầu chơi nhạc vào lúc 8h hơn. Đăng kéo violin trước. Hình như tôi thấy trong người trào dâng lên một cơn khó chịu quá thể. Vì thế tiếng đàn Đăng nghe rất tệ. Tôi cầm bút và viết một tràng vào sổ tay. Tôi viết về Dung và tiếng đàn như những nụ hoa hồng ban sớm. Còn tiếng đàn của Đăng lúc này là bầy chiên đang được lùa về trên đồng cỏ. Đăng chuyển sang chơi tiêu và guitare. Tôi cũng vẫn không ưng. Tiếng nhạc lúc này khá vụng về như một đường khâu run tay. Và đến khi Đăng bắt đầu hát thì tôi đứng dậy đi về.
Tôi đi tìm một quê hương nhưng tôi sớm nhận ra không có nơi nào giành cho mình cả. Tôi như một cây lông chông gió thổi hướng nào giạt vào hướng đó. Tôi không gốc rễ và cứ lăn mình theo những vòng xoay của gió. Cây cỏ lông chông khi bắt đầu cuộc hành trình của mình tức là nó đã chết và xác đã khô lại ở độ cần thiết để có thể nhẹ nhàng lăn đi khi gió chạm nhẹ. Quê hương của tôi ở đâu? Không nơi chốn nào cả. Không có một ràng buộc nào giành cho tôi về những người sống quanh tôi. Dù cùng ngôn ngữ, dù cùng màu da và thậm chí cùng mối liên hệ về dòng máu. Tôi gọi thế hệ sống như tôi là thế hệ giun dế và mặc dù không muốn nhưng đôi khi tôi không ngăn nổi mình cười gằn và phất tay ra ý bất cần trước tất cả. Có nhiều lúc như trong buổi tối nay, tôi hết hiểu nổi tại sao mình mệt mỏi đến vậy, chực muốn ngã khuỵu ra nhưng tôi vẫn có thể cười dịu dàng và tươi tắn với những người xung quanh xa lạ.
Tôi cầm lấy áo khoác và bước ra về. Không có cơn gió nào mặc dù trời lạnh tê tê người. Tôi không rõ cảm giác này có thuộc về ấn cảm chung của mọi người không. Nhiệt độ cơ thể tôi thất thường và không đo được bằng những dự báo bình thường.
Thật ra điều tôi muốn ở đây là gì, tôi cũng không biết và tôi chẳng có chút tò mò nào muốn biết. Tôi về, vậy thôi. Và khi nằm xuống giường, tôi nhận ra một cơn đau đầu khủng khiếp đang ập đến.

Hà Nội
Buổi chiều thứ bảy, khi tôi về đến nhà, mẹ hỏi ngay tôi có muốn ra Bắc vào những ngày tết sắp tới không, Tôi không trả lời được. Hà Nội, người đẹp của tôi, người thương của tôi, tôi không chắc là tôi có còn yêu nàng như trước đây nữa không. Sau tất cả những mỉa mai nàng giành cho tôi, tôi băn khoăn tự hỏi mình có còn đủ tự tin đối diện với nàng.
Hà Nội xinh đẹp, làm sao tôi đủ dũng cảm để đi lại trên những con đường tôi đã qua vào mùa đông trước. Ít người biết thực ra tôi đã như thế nào vào thời điểm đó. Tôi cách biệt hẳn so với thế giới thân quen bình thường và mặt nạ trên da tôi dầy hơn bao giờ hết. Tôi khóc và cười một cách bất thường hơn mọi khi. Tôi thấy mình chập chờn sống, vật vờ đi lại trên những phố phường và tự kiến tạo cho mình niềm vui và say mê bằng tất cả những gì nhỏ nhặt tôi bấu víu được. Tôi cố nghĩ rằng mình có thể mỉm cười và mình nên mỉm cười với những cuốn sách trên gác Đinh Lễ, với người đàn bà bán nước rong quát tôi khi tôi cố chụp ảnh bà ta, với con chó mặt đầy nếp nhăn nằm buồn hiu canh cửa nhà xuất bản Đông Tây, với cậu bé con đeo khẩu trang chống lạnh rồi mà vẫn hát líu lo, với những con chuồn gỗ lơ lửng trên phố Đinh Liệt. Mặt khác, mặt nạ cho phép tôi phô ra một gương mặt dịu dàng và tươi cười hạnh phúc khi quanh tôi là những người có liên hệ về dòng máu. Còn khi tôi một mình đi bộ trên những phố dài, nhất là vào cái đêm tôi đứng tần ngần trước bưu điện trung tâm, tôi thấy mình mất hết luôn cả hình hài và suy nghĩ. Tôi thấy gần như mình và nước Hồ gần đó có thể hoà làm một. Khi tôi gửi thư cho Hà từ nơi đó, tôi cũng không hiểu mình đã làm gì nữa. Tôi chỉ nhớ mình đã cười với một người xa lạ khi người ấy hỏi một câu xã giao thường tình.
Tôi cũng sẽ không trở lại được phố Lý Quốc Sư với Régina thân mến của tôi vì Régina đã được gả chồng hồi chớm thu rồi. Régina đã thay đổi tính tình và tâm tư biết bao. Ở trong xứ nóng này, tôi ngửa mặt lên cười khi biết Régina đồn với người ta rằng tôi yêu một anh chàng theo đạo và ngày nào về Hà thành tôi cũng đến nhà nguyện để ngẩn ngơ nhớ nhung vạt áo chùng. Tôi cũng cười khi nghe tiếp Régina rỉ tai bạn bè rằng có lẽ hình như tôi bị bệnh nặng lắm vì tôi hay sợ lạnh quá và tôi hình như thần kinh không bình thường. Biết sao được. Vậy mà trong lần cuối cùng, Régina liên lạc với tôi, nàng bảo rằng trời mùa thu ở nơi nàng ở quá đẹp và hỏi tôi có muốn đặt cho thời điểm này một cái tên nào không, rằng nàng sẵn sàng mất cả cuộc đời để ở lại vĩnh viễn cùng khoảnh khắc này. Vậy mà ngày đầu tiên về đến Hà thành khi đó, tôi đã đi bộ từ nơi ở đến Lý Quốc Sư để gõ cánh cửa gỗ nhà Régina mà gục đầu thổn thức. Régina không ngộ nhận về tôi chút nào hết. Régina biết rõ những lời nàng nói là không thật nhưng nàng cố tình gây ra một ngộ nhận cho chính mình. Để làm gì, tôi không hiểu. Có lẽ là để ngăn tôi bước sâu tiếp vào những con đường phố dài xao xác heo may.
Tôi không chờ đợi sự chuyển tâm của người bạn cũ. Nhưng tôi hơi buồn một chút bởi tôi nghiệm ra rằng dường như mình là một rắc rối và phiền muộn cho nhiều người. Quá nhiều người khi chấm dứt mối quan hệ với tôi, tôi nhận ra rõ ràng rằng nhìn họ có vẻ thanh thản và hạnh phúc hơn. Họ ăn ngon miệng hơn, cười nói nhiều hơn và tôi nhận ra rằng dường như họ còn béo lên và trẻ ra nữa. Không có sự hiện diện của tôi, không khí trở nên rất thanh thảnh và ngọt ngào. Mọi điều cứ trong veo đi và mát dịu. Điều đó có lúc cũng khiến tôi phải đặt ngược lại suy nghĩ phải chăng mình đã sống và yêu thương tất cả bằng một tình cảm tội lỗi, lầm lạc và muộn phiền.
Hà Nội của tôi, tôi đã đổ thuốc đầu độc Hà Nội rồi. Tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi không nên đến với Hà Nội vào thời điểm như thế. Khi ấy, những tuần trăng cứ đỏ như máu và tròn đến phát sợ. Nhưng nếu tôi không ra Hà Nội khi ấy, tôi biết tôi sẽ đầu độc chính Sài Gòn. Mà Sài Gòn, tôi biết nàng sẽ còn ràng buộc với tôi ít nhất là 5 năm nữa. Nếu tôi đổ thuốc cho Sài Gòn, tôi sẽ chẳng biết phải làm gì với một xác chết tới 5 năm. Hà Nội đừng giận và đừng nghĩ tôi đã mang vạ về cho Hà Nội. Tôi là kẻ ác, Hà Nội ạ. Và tôi không làm gì ngoài việc xây cho mình những thành phố bằng cát. Một ngày gió thổi, tất cả trở thành hoang mạc.
Mẹ vẫn chờ tôi trả lời. Tôi không biết nói ra sao cả. Tự trong chính tâm mình, tôi biết Hà Nội vẫn quyến rũ tôi quá chừng. Nhưng tôi đã đánh mất Hà Nội rồi. Chính xác là tôi đã mất sự bình yên ở Hà thành. Chính tôi chứ không ai khác làm mất nó. Tôi nhớ lần đầu khi biết động từ rêver. Tôi mường tượng ra có sự liên hệ với river. Sau này tôi mới biết mình nhầm, nhưng chỉ là nhầm về mặt lý tính còn linh cảm thì không nhầm. Mơ mộng và những con sông có bao giờ tách rời. Ngay lập tức tôi nghĩ về sông Hồng. Sự liên hệ này chỉ có thể là sông Hồng, nơi tôi muốn nhấn xoáy rơi chứ không phải là bất kỳ một con sông nào khác mà tôi từng biết. Sông Hồng có đầy đủ cạm bẫy cần thiết để kết thúc tất cả cho mọi người và mọi chuyện. Người người lớp lớp. Sau này khi biết về những làng hoa và những xe đạp rong chở hoa đi bán trên những mẹt tre ven đó, tôi càng khẳng định rõ suy nghĩ của mình. Đúng thật sự đó là nơi tôi muốn về để nằm mơ giấc mơ cuối cùng.
Bất kỳ giọt nước nào từ bao nhiêu hồ khác nhau của Hà thành bây giờ cũng có thể gây ra một cơn tê liệt và co giật đến chết. Một cái chết không đẹp đẽ gì cho cam. Nước hồ còn khủng khiếp hơn thuốc độc vì mỗi giọt nước hồ chứa đựng trong nó là tất cả những chữ nghĩa và ngôn thanh vọng lại từ hơn mấy ngàn mùa trước. Chất chồng hết ngần ấy lớp mùa thu, một giọt nước thôi cũng đủ làm kết tinh lại độc tố để đầu độc và tàn hại đời người.
Nhiều khi tôi nghĩ đến tự do và buồn cười. Nếu tôi không có thứ tự do nửa vời này, có lẽ tôi sẽ không thấy khó chịu trong người đến như vậy. Thứ tự do nửa vời làm cho người ta thấy rõ ràng là không có gì trói buộc nhưng cũng lại không thể vùng vẫy theo ý muốn. Tôi thà như có một mệnh lệnh bắt buộc phải ra Hà Nội. Chắc chắn tôi sẽ ra trong nỗi ấm ức nhưng lòng thoả thuê sung sướng vì không phải lựa chọn gì. Hoặc một mệnh lệnh khác yêu cầu không được ra Hà Nội. Một mệnh lệnh rõ ràng chứ không thoảng hoặc sương khói như chính tôi đề ra vào lúc này. Chắc là tôi sẽ len lén chuồn ra ga để bắt tàu về với Hà Nội với cảm giác chiến thắng được luật lệ và phá tung xiềng xích. Người ta thà hoặc làm nô lệ để nổi loạn hoăc thà làm kẻ sống ngoài vào cương toả hoàn toàn để phóng túng chứ thật là bứt rứt và cuồng người khi phải vào vai một người có thứ tự do trong khuôn khổ.
Một mặt khác, Hà Nội quá quyến rũ, quá thu hút tôi. Hà Nội nằm trong tiềm thức tôi, ý niệm tôi. Tôi không rời bỏ Hà Nội nổi. Nỗi ám ảnh không biết bao nhiêu lần tôi nằm mơ mình trở về Hà Nội. Và lần nào cũng vẫn, tôi lại mơ thấy mình đứng giữa Hà Nội, nhận ra mình đang buồn lại những chuyện cũ. Hà Nội thúc giục tôi một khát vọng ngang tàng. Hà Nội không phải là vẻ đẹp nhu mì của nàng thu hút tôi. Tôi biết quá rõ tính khô cằn, bảo thủ và đôi khi ác nghiệt của nàng. Nàng không phải con gái nhà khuê tú như người ta thường bảo. Nàng không e ấp như bao người lầm tưởng lần đầu mới tiếp xúc. Hà Nội có vẻ đẹp tưởng như mơ màng và bảng lảng nhưng đó là cái bảng lảng đầy nghi hoặc. Vẻ đẹp đó quá mơ hồ, quá lý tưởng để tồn tại được. Hà Nội gieo ngộ nhận vào lòng khách phương xa. Hà Nội cổ kính nhưng không phải là thứ cổ kính nghiêm trang mà là vẻ chán đời bất cần của rêu xanh và nhịp cô đầu say thuốc. Hà Nội dẹp sự dịu dàng sang bên, Hà Nội mời gọi sự phá phách trong tôi, sự phá phách mà hết sức cố gắng tôi mới giữ cho nó ngủ yên gần mười mấy năm. Một lúc nào đó tôi biết mình sẽ bùng nổ. Tôi có dám sống bất cần tất cả những mặt nạ và buồn đau để về với Hà Nội tôi thương quý vô ngần không? Tôi có dám cảm thấy hạnh phúc sau khi đạp đổ thẳng tay những gì mình khó chịu và căm ghét không? Và tôi có dám thưởng thức hạnh phúc đó không, thứ hạnh phúc bị nhân loại quy chụp cho cái mũ tội lỗi không tha thứ được. Tôi đặt ra câu hỏi đó, và tự trong tôi, một khát vọng khủng khiếp muốn thực hiện. Một thách thức ngay trước mặt và tôi băn khoăn giữa những ngả đường.
Tôi đã chất quá nhiều thứ lên vai Hà Nội. Ảo vọng, mơ mộng, suy tư, buồn bã. Và Hà Nội khuỵu chân xuống, ngước nhìn tôi bằng một đôi mắt tuyệt vọng. Muốn đổ lỗi cho một ai đó, một người nào đó về tội lỗi này. Nhưng vô ích. Hà Nội, tôi đã tự mình làm mất thành phố ven sông rồi. Tôi đã mở mắt khi sống và tôi đã nhìn quá lâu vào những lời nói hư ảo xung quanh. Ừ, tôi đã không nghe mà chiêm nghiệm chúng bằng mắt. Tôi trả giá bằng việc mất đi một niềm yêu. Một lúc nào đó, chỉ khi tôi mù loà và câm điếc, khi tôi lãng quên và điên rồ, có lẽ Hà Nội xinh đẹp sẽ trở về cùng tôi?

Thái Nguyên
Mặc dù bây giờ không còn là thời đại của những vó ngựa lộc cộc gõ khan trên mặt đường nữa nhưng tôi vẫn thảng hoặc nghe tiếng lắc bờm của bầy ngựa non kéo xe khi nghĩ về miền trung du này. Lẽ dĩ nhiên khi mẹ bảo về Bắc, tâm tư mẹ hoàn toàn chỉ có ý niệm hướng về Thái Nguyên. Hà Nội là một cái chấm nhỏ xíu, một luồng sáng bé xiu trong tâm trí mẹ. Nó nhạt nhoè.
Tôi khác. Thái Nguyên lại là một phần ký ức mà tôi muốn cuộn lại và cất trong ngăn kéo như cất một cái hộp con tuổi thơ. Bên trong có thể là bụi, có thể vẫn ngăn nắp nhưng ngàn đời người ta chẳng bao giờ muốn giở lại, dẫu cho hàng đêm giấc mơ về chiếc hộp thần bí yêu thương vẫn quẩn quanh và gợi nhắc thì thầm bên tai về những ngày tha thiết cũ.
Những ngày tha thiết cũ. Bao giờ chúng cũng có màu xanh. Màu xanh bình lặng và đẹp. Có thể ấn tượng này tạo thành do những búp lá non trong vườn ông ngoại. Tôi không biết. Mưa xuống và hoa hải đường còn ngậm mưa. Dì tôi gần bốn mươi tuổi, ưu tư gánh thật nhiều lên từng sợi tóc dày và nặng nhưng vẫn vui tươi đọc một câu Kiều có hình ảnh hoa hải đường. Tôi không tưởng lại được những tháng ngày trầy trật mưa ướt ấy nữa. Tư dưng thấy buồn vơ vẩn như thể mình đang dầm mưa thật.
Mùa xuân, gió buốt đến tận vành tai. Tay lúc nào cũng co ro thu trong áo ấm. Tôi lù xù chiếc áo dạ đỏ, đi khắp nhà này sang nhà kia trên những triền đồi như một chấm lửa nhỏ nhoi di động trên cả một khung cảnh ảm đạm. Cả vườn hoa, chỉ có tôi áo đỏ, hải đường áo đỏ. Ngoài ra, cả trời và đất là một gam màu u uất quá nỗi. Bà áo len nâu, bác áo len nâu, ông ngoại cũng sù sụ một cái áo bông màu xanh không xanh, màu xám không xám.
Thái Nguyên mùa này còn những người bán hàng rong đi gõ cửa từng nhà quen. Bà ngoại ưa chọn những món đồ bán dạo như thế. Chân bà yếu và lưng gù lên thành một khối cong có đỉnh. Chập tối, bà lại chậm chậm xuống từng bậc thang đá về nhà cậu, nằm đắp chăn xem chăm chú xem ti vi. Dường như lúc đó nhìn bà mơ màng như thể mọi lạc thú trần gian hội được về đây,
Tôi ngưng viết về Thái Nguyên ở đây vì thực ra tôi cũng chẳng muốn viết tiếp nữa. Mọi thứ an ủi cuối cùng đã tan nát trên phố huyện này. Dòng họ Phạm như cánh chuồn lúc sắp mưa…Tôi mang họ Phạm.

Sài Gòn
Biết viết gì cho Sài Gòn khi phải thú nhận một điều với Sài Gòn rằng tôi hết yêu nổi nàng rồi. Nói thật là bây giờ tôi nghĩ về Sài Gòn với những ô cửa sổ. Tôi mất quá nhiều thời gian bên những ô cửa.
Một ngày xưa lộng gió, tôi nhớ mình bảo rằng tôi sợ những ô cửa mở rộng bởi tôi e không biết lúc nào dù là sơ sẩy hay cố tình tôi sẽ ngã nhào từ đó xuống. Cuộc đời trong vòng 20 năm của tôi vi vút với chỉ hai ô cửa mà thôi. Một ô cửa ở tầng 10 căn chung cư ngay trên Đồng Khởi, phố đẹp nhất của Sài Gòn. Người đàn bà tóc bồng những lọn xoắn đã tự tử nơi đó và vĩnh viễn trong tôi in lại hình ảnh ô cửa mở với áo ngủ bồng bềnh. Ô cửa thứ hai tôi nhận ra năm tôi 16 tuổi. Ô cửa sổ ngay phòng. Một ô cửa sang trọng có những viền gỗ hoa văn và loang loáng bóng kính. Tôi đã mở rộng cửa và ngồi lên thành bệ cửa sổ, gục đầu xuống nhìn mấy cây cỏ may chết xuôi chết ngược vào một đêm buồn vô tận. Ở dưới thảng hoặc có bài ca của người gác cổng say mèm những chén nếp nưa. Cỏ may và bài hát say giữ cho chân tôi ở lại trên thềm cửa. Bây giờ tôi sắp tìm ra ô cửa thứ ba. Biết đâu ô cửa này bàn chân tôi sẽ được đặt lên vĩnh viễn.
Tôi biết người đàn bà tự gọi mình là Le petit soleil cũng yêu những ô cửa. Tôi không dám hỏi xem vào cái tuổi 50, liệu bà ấy có thấy mọi ô cửa sổ đều là quá chán nản không. Chúng tôi bất đồng về ngôn ngữ. Không phải vì tôi viết cho bà bằng tiếng Anh còn bà trả lời tôi bằng tiếng Pháp mà vì ngôn ngữ của hai thế hệ chúng tôi đã cách biệt nhau quá nhiều. L.P.S. an ủi tôi rằng :”Dầu sao thì hãy ở lại với thành phố của em. Em 20 tuổi và đáng thương rằng em chẳng bao giờ cảm thấy nét đẹp của cái tuổi ấy ngay thời điểm nó tồn tại.” Tôi không trả lời thư cho bà. Tôi không thể phũ phàng mà trả lời rằng :”Vâng thưa bà, nhưng tuổi 20 của bà khác của tôi. Thế nhưng tuổi 50 hiện giờ của bà có những khoảnh khắc y hệt tuổi 20 hiện giờ của tôi. Thành phố tôi đang ở chỉ toàn chuột chết thôi vì tôi lỡ tay rắc bả chuột hơi nhiều. Tôi ưa mang theo bả chuột mỗi khi ra khỏi nhà lắm.” Tôi đành tự lẩm bẩm với chính mình câu nói đó. L.P.S. sẽ chẳng bao giờ biết được người du mục đi ngang qua những trang viết bằng bài ca buồn ấy là ai cả. Gió sẽ đẩy xa những phiền muộn nơi cổ bầy chim sẻ nhỏ. Chỉ có thể giản dị, như vào một sớm mai, tôi và L.P.S. cùng mở cửa sổ và thốt lên: “Tôi thương những con chim sẻ vô tận.”
Thiện cũng cũng yêu chim sẻ. Tôi biết vậy. Nhưng Thiện còn thương cả những con cú gào khóc vào ban đêm. Thiện đã muốn sụp lạy và khóc khi nghe tiếng kêu đó. Tôi tha thứ cho Thiện vì thật là may, đó chỉ là Thiện muốn chứ Thiện chưa làm. Tiếng chim hót trong đêm thời Thiện và tôi khác nhau xa quá. Hồi đó chắc là sơn ca hay hoạ mi chi đó, còn giờ thì chỉ có cú lợn thôi, mà tôi thì kinh tiếng cú.
Tôi muốn có một trang viết của Thiện bây giờ để phủ lên mặt và nằm yên nhấm nhấm góc giấy. Nói buồn cười, tôi muốn ăn chữ. Sài Gòn dạo này lại đổ lạnh và những con chữ co lại thành một vắt tin hin trong tận cùng đầu tôi. Nó chỉ ùa về và vỡ tung như bánh lương khô gặp nước mỗi khi tôi nhớ về Hà Nội hoặc tôi nghĩ về hai bàn chân của mình. Chiều nay khi đi trong hiệu sách, suýt chút nữa tôi đã trào nước mắt khi nhìn thấy cả một hàng sách dài về Hà thành. Và dĩ nhiên phải bước đi thật thẳng, đầu ngẩng hơi cao một chút để nước mắt không rơi khỏi ô mắt, đừng nhìn xuống hai bàn chân lúc này mặc dù trong những lúc buồn, tôi thèm khát được ngồi xuống ngay giữa phố và nắm lấy hai gót chân mình. Tôi không còn bé bỏng nữa để được Sài Gòn hay Hà Nội chở che ôm vào lòng. Hà Nội thì hấp hối còn Sài thành thì cô độc. Lỗi tại tôi đã đi mòn đi mẩy hết những con đường. Tôi đã mang xe lu càn qua hết cả chục phố để vĩnh viễn ký ức về những con đường ấy không ám ảnh tôi nữa. Tôi không chấp nhận làm kẻ thua cuộc trong cuộc đấu với trí nhớ. Và tới tận lúc này, khi đường phố vỡ vụn, tôi buồn là mình cũng chưa biết là thắng thua ra sao nữa.
Trên những con phố ấy ngày xưa, tôi đi với niềm ngấy chán dâng tột đỉnh vì hốt nhiên biết mình ngộ nhận. Bây giờ nghĩ lại, không lúc nào là tôi không lăn ra cười. Khi đó tôi tưởng tôi yêu, lại còn tưởng tôi say nữa, lại nữa thêm cả chuyện tưởng tôi bị lạnh nữa. Giờ nghĩ lại mới buồn cười, mình chả cảm thấy gì sất. Mình chỉ ngộ nhận thôi.
Hắn biết tôi có niềm ám ảnh với những ô cửa, rằng tốt nhất với tôi là những cửa sổ phải có chấn song. Nhưng hắn lại bảo tôi rằng “Mở cửa ra đi bé, nhìn xuống kìa, vui biết bao nhiêu.”
Ừ thì vui, đương nhiên rồi. Bay mà, không vui thì chết đi cho rảnh chứ đứng hoài trên cửa sổ chi? Hai đứa mình nắm tay nhau cùng bay qua cửa sổ Sài Gòn, nha bé yêu của em!

28.12.05
Mạn Vũ